Lượng trái phiếu các ngân hàng mua lẫn nhau chiếm hơn 1/4 tổng lượng phát hành trong nửa đầu năm nay. Điều này được giải thích là một cách để tăng cường nguồn lực tài chính cho tổ chức phát hành và giải quyết phần vốn có thể cho vay mà các ngân hàng không muốn đổ vào các kênh rủi ro hơn. Các ngân hàng thương mại đã tăng cường bán chéo trái phiếu cho nhau khi các quy định được “nới lỏng” từ ngày 17/5/2021. Vậy thực tế hoạt động này diễn ra như thế nào? Độc giả quan tâm theo dõi những thông tin chúng tôi cập nhật ngay trong bài viết dưới đây của chúng tôi nhé!
Mục Lục
Ngân hàng vẫn tấp nập phát hành trái phiếu
Trong tháng 8/2021, các ngân hàng thương mại vẫn dẫn đầu thị trường về phát hành trái phiếu và vẫn là bên mua lại trái phiếu ngân hàng lớn nhất. Trong tháng 8/2021 có tổng cộng 52 đợt phát hành trái phiếu doanh nghiệp trong nước. Trong đó, nhóm ngân hàng tiếp tục dẫn đầu về khối lượng phát hành. Với tổng giá trị phát hành 10.854 tỷ đồng. Chiếm 41,6% tổng giá trị phát hành.
Nhiều ngân hàng phát hành trái phiếu để tăng vốn cấp 2
Luỹ kế 8 tháng đầu năm, thị trường ghi nhận 490 đợt phát hành trái phiếu doanh nghiệp trong nước. Với tổng giá trị phát hành đạt 308.517 tỷ đồng. Trong đó, có rất nhiều ngân hàng phát hành trái phiếu để tăng vốn cấp 2. Có 2.324 tỷ đồng trái phiếu phát hành tăng vốn cấp 2. Chúng thuộc về các ngân hàng BIDV, VietinBank, VIB, MB và Viet Capital Bank.
Lãi suất phát hành các trái phiều tăng vốn cấp 2 chủ yếu là LS thả nổi tham chiếu bình quân lãi suất tiết kiệm 4 ngân hàng (Vietcombank, BIDV, Vietinbank, Agribank), dao động từ 6.1% đến 7.6%/năm. Các ngân hàng khối lượng phát hành lớn gồm: VPBank (2.630 tỷ), OCB (2.000 tỷ), SHB (1.400 tỷ). Đều là các trái phiều kỳ hạn 2-4 năm, lãi suất cố định 3,5%-4,2%/năm.
Nhóm ngân hàng thương mại dẫn đầu thị trường trái phiếu doanh nghiệp
Lũy kế 8 tháng đầu năm, nhóm ngân hàng thương mại vẫn là bên phát hành lớn nhất thị trường trái phiếu doanh nghiệp với tổng giá trị phát hành đạt 116.100 tỷ đồng. Trong đó có:
− 24.186 tỷ đồng trái phiếu tăng vốn cấp 2, chiếm 20,8%
− Trái phiếu phát hành kỳ hạn ngắn 2 – 4 năm chiếm 78,3%. Lãi suất thấp dao động từ 3% – 4,2%, cố định trong toàn bộ thời hạn của trái phiếu.
Trong tháng 8/2021, đứng ở vị trí á quân về phát hành trái phiếu là doanh nghiệp bất động sản. Với giá trị phát hành 8.950 tỷ đồng. Nâng khối lượng lũy kế phát hành 8 tháng lên 107.980 tỷ đồng. Trong đó, có khoảng 21,6% trái phiếu phát hành không có tài sản bảo đảm hoặc bảo đảm bằng cổ phiếu. Lãi suất phát hành dao động trong khoảng 8% – 13%/năm.
Ngân hàng thương mại dẫn đầu thị trường mảng mua bán chéo trái phiếu
Không chỉ dẫn đầu về lượng phát hành, ngân hàng thương mại còn là bên mua trái phiếu ngân hàng lớn nhất thị trường (mua bán chéo trái phiếu cho nhau nhau) bằng hình thức trực tiếp hoặc gián tiếp qua công ty chứng khoán.
Theo đánh giá của SSI, việc ngân hàng tăng cường bán chéo trái phiếu cho nhau là bởi theo quy định tại Thông tư 34/2013/TT-NHNN, tổ chức tín dụng không được mua trái phiếu phát hành trên sơ cấp của tổ chức tín dụng khác nên các công ty chứng khoán thường đứng ra làm trung gian, mua trái phiếu ngân hàng trên sơ cấp sau đó bán lại cho các tổ chức tín dụng khác. Tuy vậy, quy định này đã được gỡ bỏ nên các ngân hàng thương mại đã có thể trực tiếp mua chéo trái phiếu của nhau trên sơ cấp từ ngày 17/5/2021.
Hiện Ngân hàng Nhà nước đang dự thảo Thông tư thay thế Thông tư 22/2016/TT-NHNN ngày 30/6/2016 quy định việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua trái phiếu doanh nghiệp theo hướng siết chặt hơn nữa hoạt động mua trái phiếu doanh nghiệp của các ngân hàng.
Đánh giá từ các chuyên gia
TS. Nguyễn Trí Hiếu, chuyên gia tài chính – ngân hàng cho rằng:
“Việc các ngân hàng phát hành lượng lớn trái phiếu có thể nhằm tăng vốn cấp 2 để đáp ứng tỷ lệ an toàn vốn theo quy định của Ngân hàng Nhà nước và nhằm bù đắp phần vốn thiếu hụt từ các khoản thu hồi nợ đến hạn đáng lý phải trở lại ngân hàng nhưng vì dịch Covid-19 mà phải thực hiện giãn, hoãn trả nợ cho khách hàng.
Điểm tích cực là các ngân hàng nhìn nhận đây là khoản đầu tư có tính thanh khoản tốt. Đặc biệt trong trường hợp nhiều ngân hàng đang có nguồn vốn khả dụng lớn. Nhưng hạn chế cho các doanh nghiệp vay do e ngại rủi ro vì dịch bệnh. Tuy nhiên, điểm chưa tích cực là dòng tiền, dòng tín dụng sẽ lòng vòng trong hệ thống. Dòng tiền không chảy vào sản xuất, kinh doanh.